Bộ Xây dựng: Chưa cho phép xây nhà 25 m2 để bán
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho biết, Bộ Xây dựng chưa bao giờ kiến nghị cho phép doanh nghiệp được xây dựng các căn hộ có diện tích 25 m2 để bán.
Trao đổi về khả năng Bộ Xây dựng đề xuất với Chính phủ sửa đổi Nghị định thi hành Luật Nhà ở, cho phép các chủ đầu tư xây dựng căn hộ nhỏ. Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho biết, Bộ Xây dựng chưa bao giờ kiến nghị cho phép doanh nghiệp được xây dựng các căn hộ có diện tích 25 m2 để bán.
"Dư luận đã hiểu sai nội dung trên vì đó là đề nghị của Bộ Xây dựng khi trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định về phát triển và quản lý nhà ở cho thuê tại khu vực đô thị. Theo đó, chỉ có căn hộ cho thuê mới được phép xây dựng với diện tích 25 m2 mà thôi", ông Nam nhấn mạnh. Nếu như theo lời ông Nam thì chính sách chưa "bật đèn xanh" cho loại hình căn hộ diện tích nhỏ.
Ông Trương Anh Tuấn, Luật sư thành viên Văn phòng luật sư Investlinkco và Cộng sự cho biết, Luật Nhà ở hiện hành chỉ quy định về diện tích tối thiểu của một căn hộ chung cư, không quy định về vấn đề sở hữu căn hộ chung cư. Việc sở hữu căn hộ chung cư hoặc sở hữu một tài sản nói chung thuộc phạm vi pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp). Sở hữu căn hộ chung cư cũng tương tự như việc sở hữu xe máy hoặc xe ô tô, một hoặc nhiều người có thể cùng sở hữu một tài sản. Bộ luật Dân sự hiện hành và những quy định pháp luật khác cũng không có quy định nào cấm nhiều người sở hữu một căn hộ chung cư, do đó có thể có rất nhiều người cùng sở hữu một căn hộ chung cư .
Tuy nhiên, khi đồng sở hữu căn hộ chung cư, khách hàng cần lường trước vấn đề pháp lý, nhất là khi số lượng người sở hữu càng nhiều, tính cách và nhu cầu càng đa dạng. Có 2 vấn đề khó khăn gồm chuyển nhượng và cầm cố khi khách hàng đồng sở hữu sổ đỏ. Ông Tuấn lấy ví dụ, nếu căn hộ chung cư 50m2 của riêng một cặp vợ chồng thì chỉ cần hai vợ chồng cùng ký tên là có thể quyết định căn hộ được chuyển nhượng hoặc được cầm cố. Nay, nếu căn hộ chung cư đó có 2 cặp vợ chồng cùng tham gia mua chung, sẽ cần chữ ký đồng ý của 4 người. Tương tự, nếu căn hộ chung cư loại 75 m2 có 3 cặp vợ chồng đồng sở hữu thì cần sự đồng ý của 6 người.
"Dù các bên có thể thực hiện việc ủy quyền thường xuyên để mỗi cặp vợ chồng tự quyết định phần diện tích riêng của mình, thì việc ủy quyền này có thể vẫn phức tạp. Nếu thay đổi chủ sở hữu thì phải thay đổi việc ủy quyền, nếu một trong những bên ủy quyền khác xảy ra trường hợp chết, thừa kế, ly hôn. Vì vậy, vấn đề pháp lý của căn hộ đó sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với khi chỉ có một cặp vợ chồng sở hữu", ông Tuấn nói và bổ sung thêm, những hệ lụy khác có thể xảy ra liên quan tới việc chung sống trong cùng căn hộ có chung giấy tờ là khi có những việc sửa chữa nhà cửa, những trường hợp trong cuộc sống mà cần sử dụng giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ.
Một câu hỏi mà vị luật sư này cũng băn khoăn là CTCP Đô thị FPT Đà Nẵng xử lý vấn đề cấp Giấy chứng nhận sở hữu căn hộ đối với các đồng sở hữu như thế nào. Hiện nay, pháp luật chỉ quy định cấp một giấy chứng nhận quyền sở hữu cho một căn hộ, vì vậy đối với nhiều người cùng sở hữu một căn hộ thì không thể cấp nhiều giấy chứng nhận cho mỗi người. Vấn đề có thể càng phức tạp khi vì một lý do nào đó các đồng sở hữu không hợp tác với nhau.
"Dư luận đã hiểu sai nội dung trên vì đó là đề nghị của Bộ Xây dựng khi trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định về phát triển và quản lý nhà ở cho thuê tại khu vực đô thị. Theo đó, chỉ có căn hộ cho thuê mới được phép xây dựng với diện tích 25 m2 mà thôi", ông Nam nhấn mạnh. Nếu như theo lời ông Nam thì chính sách chưa "bật đèn xanh" cho loại hình căn hộ diện tích nhỏ.
Ông Trương Anh Tuấn, Luật sư thành viên Văn phòng luật sư Investlinkco và Cộng sự cho biết, Luật Nhà ở hiện hành chỉ quy định về diện tích tối thiểu của một căn hộ chung cư, không quy định về vấn đề sở hữu căn hộ chung cư. Việc sở hữu căn hộ chung cư hoặc sở hữu một tài sản nói chung thuộc phạm vi pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp). Sở hữu căn hộ chung cư cũng tương tự như việc sở hữu xe máy hoặc xe ô tô, một hoặc nhiều người có thể cùng sở hữu một tài sản. Bộ luật Dân sự hiện hành và những quy định pháp luật khác cũng không có quy định nào cấm nhiều người sở hữu một căn hộ chung cư, do đó có thể có rất nhiều người cùng sở hữu một căn hộ chung cư .
Tuy nhiên, khi đồng sở hữu căn hộ chung cư, khách hàng cần lường trước vấn đề pháp lý, nhất là khi số lượng người sở hữu càng nhiều, tính cách và nhu cầu càng đa dạng. Có 2 vấn đề khó khăn gồm chuyển nhượng và cầm cố khi khách hàng đồng sở hữu sổ đỏ. Ông Tuấn lấy ví dụ, nếu căn hộ chung cư 50m2 của riêng một cặp vợ chồng thì chỉ cần hai vợ chồng cùng ký tên là có thể quyết định căn hộ được chuyển nhượng hoặc được cầm cố. Nay, nếu căn hộ chung cư đó có 2 cặp vợ chồng cùng tham gia mua chung, sẽ cần chữ ký đồng ý của 4 người. Tương tự, nếu căn hộ chung cư loại 75 m2 có 3 cặp vợ chồng đồng sở hữu thì cần sự đồng ý của 6 người.
"Dù các bên có thể thực hiện việc ủy quyền thường xuyên để mỗi cặp vợ chồng tự quyết định phần diện tích riêng của mình, thì việc ủy quyền này có thể vẫn phức tạp. Nếu thay đổi chủ sở hữu thì phải thay đổi việc ủy quyền, nếu một trong những bên ủy quyền khác xảy ra trường hợp chết, thừa kế, ly hôn. Vì vậy, vấn đề pháp lý của căn hộ đó sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với khi chỉ có một cặp vợ chồng sở hữu", ông Tuấn nói và bổ sung thêm, những hệ lụy khác có thể xảy ra liên quan tới việc chung sống trong cùng căn hộ có chung giấy tờ là khi có những việc sửa chữa nhà cửa, những trường hợp trong cuộc sống mà cần sử dụng giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ.
Một câu hỏi mà vị luật sư này cũng băn khoăn là CTCP Đô thị FPT Đà Nẵng xử lý vấn đề cấp Giấy chứng nhận sở hữu căn hộ đối với các đồng sở hữu như thế nào. Hiện nay, pháp luật chỉ quy định cấp một giấy chứng nhận quyền sở hữu cho một căn hộ, vì vậy đối với nhiều người cùng sở hữu một căn hộ thì không thể cấp nhiều giấy chứng nhận cho mỗi người. Vấn đề có thể càng phức tạp khi vì một lý do nào đó các đồng sở hữu không hợp tác với nhau.